Giấy dó, giấy điệp và tranh dân gian Đông Hồ

Giấy dó, giấy điệp và tranh dân gian Đông Hồ

Giấy dó, giấy điệp và tranh dân gian Đông Hồ

Giấy dó, giấy điệp và tranh dân gian Đông Hồ

Giấy dó, giấy điệp và tranh dân gian Đông Hồ
Giấy dó, giấy điệp và tranh dân gian Đông Hồ
Giấy dó, giấy điệp và tranh dân gian Đông Hồ

Giấy dó là một loại giấy được sản xuất từ vỏ những cây dó (như dó giấy, dó liệt...), theo quy trình thủ công được truyền lại qua nhiều thế hệ ở một số làng nghề ở Việt Nam. Giấy dó được dùng cho vẽ tranh trong mỹ thuật dân gian Việt Nam, đặc biệt là để làm giấy điệp cho tranh Đông Hồ, hay lưu giữ các tài liệu, nhờ vào nhiều ưu điểm, nổi bật nhất là độ bền theo thời gian.

Lợn âm dương

Nguyên liệu chủ yếu của giấy dó vùng Kinh Bắc và Hà Nội là cây dó giấy. Một số nơi khác còn dùng cây dướng, cây dó liệt.

Cây dó giấy, Rhamnoneuron balansae, thuộc họ Trầm Thymelaeaceae, là một loại cây nhỏ trong nhóm cây gỗ lớn, cao 8-12m, đường kính thân ≤ 20cm, cành non phủ đầy lông. Lá mọc cách, phiến hình trứng thuôn, dài 10-20cm, rộng 3-3,5cm, tròn, thót nhọn ở đầu, mỏng, nhẵn ở mặt trên có lông ngắn và nằm ở mặt dưới, có 20 - 25 đôi gân, bậc hai gần như song song; cuống lá dài 3 - 4mm, có lông và có cánh.

Cụm hoa ở đầu cành là chùy thưa dài hơn lá, có lông. Cụm hoa đơn vị là tán, gồm 4 hoa không cuống, khi non được bao bởi hai lá bắc tổng bao dài 6 - 7mm, có lông len. Hoa màu trắng, lưỡng tính, thơm. ống đài dài 1cm, hơi loe ở giữa, phủ đầy lông ở ngoài, nhẵn, ở trong mang 4 lá đài trên đầu. Lá đài hình trứng, to nhỏ không bằng nhau, dài 2mm, có lông ở mặt ngoài. Nhị 8, xếp thành hai vòng không dài bằng nhau.

Đĩa tuyến mật cao 1,5 - 2mm, hình chén mỏng, mép lượn sóng. Bầu hơi có cuống, phủ đầy lông; vòi ngắn; núm to, gần hình bán cầu. Quả khô không tự nở, hình trứng, dài 7mm; vỏ quả ngoài mỏng, phủ đầy lông màu vàng nhạt. Hạt hình thoi, dài 6mm, rộng 1,7mm.

Nghiên cứu tại các cơ sở sản xuất giấy dó ở Việt Nam cho thấy, về cơ bản, giấy dó sản xuất thủ công, không có tác động hoá chất tạo axít trong giấy. Vỏ cây dó được nấu và ngâm trong nước vôi với thời gian ba tháng, bóc bỏ lần vỏ đen đi, giã bằng cối và chày rồi dùng chất nhầy từ cây mò tạo hỗn hợp kết dính. Khi xeo giấy, người thợ dùng liềm xeo (khuôn có mành trúc hay dây đồng ken dày) chao đi chao lại trong bể bột dó. Lớp bột dó trên liềm chính là tờ giấy dó sau khi kết thúc công đoạn ép, phơi, nén hay cán phẳng. Xơ dó kết lại với nhau, như cái mạng nhện nhiều lớp, tạo nên tờ giấy dó. Sự kết mạng như vậy đã làm cho tờ giấy xốp. Vì xốp nên giấy rất nhẹ. Sau cùng là phơi hoặc sấy.

Các công cụ sản xuất hầu như bằng tre, gỗ và dùng ánh sáng tự nhiên để làm khô giấy. Giấy dó được sản xuất theo quy trình này không có độ axít dẫn đến tuổi thọ cao. Một số tài liệu cho rằng giấy dó có độ tuổi thọ tới 500 năm.

Giấy điệp là loại giấy dân gian của Việt Nam, thường được nhắc tới cùng với tranh Đông Hồ. Trong quy trình sản xuất giấy điệp, người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, rồi trộn bột đã nghiền với hồ (có lẽ là bột gạo nếp đã được nấu) rồi dùng chổi lá cây thông quét lên mặt giấy dó. Chổi lá thông tạo nên những ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng, có ánh lấp lánh những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, có thể pha thêm màu khác vào hồ trong quá trình làm giấy điệp.

 
Vỏ điệp
 

Giấy dó có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhoè khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc dòn gẫy, ẩm nát. 
Giấy dó xốp, nhẹ do nguyên liệu, cách chế biến, xử lý nguyên liệu và công nghệ sản xuất giấy dó quy định. Giấy dó có cấu trúc dạng sợi, các xơ sợi li ti cố kết với nhau tựa mạng nhện, nhiều lớp, không theo thứ tự sợi ngang, dọc như tấm lụa dệt, mà theo dạng chuyển động brown, đa chiều. Giấy dó có trọng lượng riêng bằng khoảng một nửa các loại giấy sản xuất công nghiệp.

Giấy dó Yên Thái đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới và được bạn hàng ưa chuộng. Các hoạ sĩ người Pháp đã sử dụng giấy dó Yên Thái (khổ lớn) để vẽ tranh bằng mực tầu theo phương pháp tranh cổ điển phương Đông. Một vài bảo tàng ở châu Âu cũng đã dùng giấy dó để lót bồi phía sau tranh vẽ. Với đặc tính chống ẩm rất cao, giấy dó giúp cho các tác phẩm nghệ thuật không bị ẩm mốc.

Tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, trong số những tài liệu giấy, thì tài liệu giấy dó có tuổi thọ cao nhất. Các tài liệu giấy dó là những loại tài liệu được sản sinh lâu đời nhất, từ khi các phương tiện bảo quản chưa được phát triển.

* Bắt màu, hút ẩm và thoát ẩm: Vì xốp nên giấy dó rất dễ bắt màu khi viết, in.
* Cách nhiệt, cách âm, thẩm âm, cháy kiệt: Cũng vì xốp nên giấy dó cách nhiệt, cách âm tốt, do có cấu trúc dạng sợi đa chiều.

Giấy dó bao gồm nhiều loại, tùy theo mục đích sử dụng:
* Giấy phương 
* Giấy trúc 
* Giấy khay 
* Giấy để tạo giấy sắc 
* Giấy vua phê 
* Giấy hành ri 
* Giấy dó bìa 
* Giấy sắc (Nghĩa Đô): giấy dó loại đặc biệt để phong sắc cho các quan, được bôi keo, nhuộm, làm nghè, đánh vàng, đánh bạc và vẽ rồng.

Bôi keo: Làm cho giấy thêm dai, không hút ẩm và chống mối mọt. 
Nhuộm: tạo cho giấy có màu sắc đặc trưng bằng bột hoa hèo giã nhõ, nhuộm cả hai mặt
Nghè: Dùng chày vỗ giã, đập lên cả chồng giấy khoảng 4, 5 tờ trên đe đá, làm cho giấy mỏng và dai hơn. Đánh vàng và đánh bạc là 2 cách thức với những bí mật nghề nghiệp riêng trong công đoạn nghè giấy. 
Vẽ rồng: Là công đoạn cuối cùng, khó nhất, cầu kỳ nhất và cũng là nghệ thuật nhất, bao gồm "vẽ chạy" và "vẽ đồ" (tô kim nhũ, vàng, bạc lên nét vẽ chạy)


* Giấy moi, giấy phèn làm từ nguyên liệu thô hơn, có mặt giấy khô ráp, sử dụng để gói hàng (Triều Khúc, Yên Thái) 
* Giấy xề: làm từ các đầu mẩu vỏ dó bị loại bỏ (làng Kẻ Cót hay làng Cót)

Xin liện hệ Công ty TNHH TM DV Đa Lộc để được tư vấn những thắc mắc của quý khách hàng về các loại văn phòng phẩm, vệ sinh phẩm các loại đồ bảo hộ lao động.

 

0274 3 86 68 68
9A, Lê Hồng Phong, Tổ 58, Khu Phố. 7, Phường Phú Lợi, Thành Phố Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương
vppdaloc2009@gmail.com
© 2016 ĐA LỘC. Web design by nina.vn
Đang online: 1 | Truy cập ngày: 33 | Tổng truy cập: 203781
Close
Sản phẩm
Đơn gí
Số lượng
Thành tiền
Thành tiền: